Bộ máy sức người của Tập đoàn Viễn thông Quân đội ( Viettel ) đã bắt đầu trở nên ì ạch và cồng kềnh , như chính để ý của giám đốc điều hành Nguyễn Mạnh Hùng.
Phải chăng , Viettel , một trong rất ít tập đoàn quốc gia làm ăn hiệu quả tạm thời gian qua , cũng sẽ không thoát khỏi tình trạng thường thấy của doanh nghiệp Nhà nước?
Trong một tổ chức , bộ máy cơ quan nếu so với một thân hình người thì nó là cái bụng. Cái bụng mà to , mà béo thì thường là người có bệnh. Các tổ chức có vấn đề thì bao giờ cái bụng cũng to.
Viettel khi nhìn lại cũng to thật. Có lúc bộ máy quản lý cấp trung lên tới gần 1.000 người. Đây là bộ máy trung chuyển truyền bảo từ trên xuống và quan điểm từ dưới đi lên.
vì thế , nếu bộ máy này càng to thì càng chậm , làm cho hệ thống giao thông bị nghẽn lại suốt. Nó cũng là bộ máy sinh ra các quy trình , pháp lệnh , vì thế khi to ra sẽ có Khuynh hướng của thời thế sinh ra rất nhiều thủ tục và làm tổ chức kém mẫn tiệp đi.
Viettel mới rồi làm hai đợt tinh giảm bộ máy quản lý cấp trung , và hết đợt thứ hai thì bộ máy này sẽ giảm hơn một nửa , chỉ còn trên 400 người.
Cùng với việc giảm vấn đề nhân sự , chúng ta cũng định nghĩa lại việc của cơ quan là gì và thiết kế lại tổ chức , để tập trung vào các nghề nghiệp như tư vấn , định hướng , xây dựng cơ chế , chính sách , kiểm tra , đào tạo. Dựa trên thiết kế đó mới rà , phân bổ lại nhân sự.
Cụ thể là gì vậy?
Doanh nghiệp quốc gia hay doanh nghiệp tư nhân cũng là một tổ chức trong một từng lớp , cũng có giao thiệp từng lớp. Có khi doanh nghiệp tư nhân còn nhiều giao thiệp hơn. Nó là một hiện tượng xã hội.
Thứ hai , trong một tổ chức có rất nhiều việc , có những việc đòi hỏi anh học ở Harvard nhưng cũng có những việc chỉ cần lao động phổ quát như pha trà , máy photocopy mới . Vấn đề là anh Xếp đặt như thế nào , toàn Harvard thì tổ chức cũng không hoạt động được , mà toàn cần lao phổ quát thì tổ chức đó chết.
vì thế , vấn đề là chúng ta phải đẩy các doanh nghiệp quốc gia phải sáng tạo , phải tạo ra giá trị , phải tranh đua với nhau , đặt ra cho nó những mục đích và càng ngày càng cao hơn về các chỉ số lợi nhuận trên vốn , trên doanh số , trên năng suất lao động.
Nhưng cũng có một vấn đề được quan hoài là , một số lãnh đạo doanh nghiệp lại ý rằng , mức lương hiện nay đối với lãnh đạo là thấp , thậm chí không đủ để giữ người tài hoặc kích thích năng lực sáng tạo , phát triển. Trong khi đó , rất đông quan điểm để ý , lãnh đạo không ít các tập đoàn , tổng công ti được trả lương cao so với hiệu quả mang lại. Ông để ý hai luồng quan điểm đó như thế nào?
Dễ làm lắm. Giờ chỉ cần làm một nghiên cứu , như ngành viễn thông , thì xem quỹ lương chiếm khoảng bao lăm phần trăm doanh số hoặc doanh số trừ phí tổn. Nghiên cứu một đôi nước gần giống mình thì sẽ tìm ra consortium đó.
Trong quỹ đó thì lương của giám đốc điều hành hay ban giám đốc điều hành chiếm bao lăm phần trăm doanh số hoặc doanh số trừ phí tổn. Hoặc cũng có khả năng khảo sát được mức lương hoàn toàn , làng nhàng của các doanh nghiệp viễn thông lớn , coi consortium đó là thịt thà và mang ra để áp dụng , so xem cao hay thấp.
Còn không có thời hạn thì chẳng biết cao hay thấp.
Theo tôi , lương là một cơ chế thịt thà vì khi tranh đua với nhau nhau phải lôi cuốn nguồn lực và nó tự hình thành mức lương thuê máy photocopy mới ngành ấy. Quốc gia hoàn toàn có khả năng có những nghiên cứu đó , tìm ra mức lương nhàng nhàng của ngành và cho doanh nghiệp quốc gia hưởng mức đó , cũng không cố định phải cho hưởng mức cao nhất , tất nhiên là doanh nghiệp quốc gia phải có lãi.
Theo Mạnh Chung ( Vneconomy )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét